Theo số liệu của Chính phủ Nhật Bản công bố vào ngày 15-2-2024, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) danh nghĩa năm 2023 của Nhật Bản đạt khoảng 4.200 tỷ USD, trong khi đó GDP của Đức đạt khoảng 4.500 tỷ USD. Điều này đồng nghĩa với việc Đức đã vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, sau Mỹ và Trung Quốc.
Nhật Bản đã trải qua thời kỳ khó khăn sau giai đoạn phát triển “thần kỳ” từ năm 1952 – 1971, với tăng trưởng tổng sản lượng quốc gia (GNP) bình quân đạt 9,6%/năm. Từ năm 1992 - 2011, tốc độ tăng trưởng GNP của Nhật Bản giảm xuống chỉ còn trung bình 0,7%/năm. Quy mô nền kinh tế Nhật Bản ngày càng thu nhỏ, với GDP năm 2022 đạt 4.231 tỷ USD, giảm 33% so với năm 2012 là 6.272 tỷ USD. Kinh tế Nhật Bản suy giảm trên nhiều lĩnh vực, đi kèm với tỷ lệ nợ công cao. Những thế mạnh chủ chốt của nền kinh tế Nhật Bản, như ngành công nghiệp sản xuất ô-tô và điện tử, đã chứng kiến sự sụt giảm mạnh mẽ. Từ xếp hạng vị trí hàng đầu về sản xuất ô-tô trên thế giới, thị trường ô-tô Nhật Bản đã giảm xuống vị trí thứ tư, sau Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ(1). Tương tự, từ xếp hạng vị trí thứ hai về xuất khẩu hàng điện tử, Nhật Bản đã xuống vị trí thứ sáu, với thị phần giảm từ 13% năm 2000 giảm còn 4% vào năm 2022(2).
Nền kinh tế Nhật Bản rơi vào trạng thái đình trệ trong thời gian dài do nhiều nguyên nhân, nhưng phần lớn được cho là bắt nguồn từ xu hướng già hóa dân số. Là đất nước già nhất thế giới, số lượng người trên 65 tuổi tại Nhật Bản đạt hơn 36 triệu người, chiếm khoảng 29% dân số năm 2022, vượt xa các nước phát triển khác. Theo dự báo của Viện Nghiên cứu dân số và an sinh xã hội quốc gia Nhật Bản, tỷ lệ người cao tuổi sẽ chiếm khoảng 35,3% tổng dân số Nhật Bản vào năm 2040 và có thể lên tới 40% vào năm 2060. Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh của Nhật Bản cũng liên tục giảm, trung bình khoảng 2,5%/năm trong thập niên qua(3).
Tình trạng già hóa dân số gia tăng liên tục với tốc độ nhanh đã khiến đất nước được mệnh danh là “gã khổng lồ” về kinh tế phải đối mặt với không ít thách thức, khó khăn. Già hóa dân số làm suy giảm lực lượng lao động, gia tăng áp lực quỹ lương hưu, đặt gánh nặng lên vai lực lượng lao động trẻ, dẫn đến chi phí sinh hoạt đắt đỏ, thời gian làm việc gia tăng và trách nhiệm phụng dưỡng người cao tuổi ngày càng lớn. Áp lực công việc dẫn đến những vấn đề xã hội, góp phần vào xu hướng sống cô độc, không muốn kết hôn và có con trong giới trẻ Nhật Bản, tạo ra vòng xoáy đi xuống giữa già hóa và suy thoái kinh tế.
Từ câu chuyện Nhật Bản suy nghĩ về nguy cơ già hóa dân số
Câu chuyện nền kinh tế Nhật Bản cho thấy một thực tiễn đáng quan ngại trước tác động của tình trạng già hóa dân số đến phát triển kinh tế, phát tín hiệu báo động đối với nhiều quốc gia. Đã đến lúc cần nhìn lại một cách hệ thống vấn đề già hóa dân số và những hệ lụy mang tính hệ thống của tình trạng này.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), già hóa dân số là quá trình thay đổi về thành phần tuổi và gia tăng tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số. Dân số được gọi là già hóa khi người cao tuổi chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong toàn bộ dân số. Cụ thể, một quốc gia có tỷ lệ người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) chiếm từ 7 - 9,9% tổng dân số, được coi là “già hóa”; từ 10 - 19,9% được coi là dân số “già”; từ 20 - 29,9% được coi là dân số “rất già” và từ 30% trở lên được coi là dân số “siêu già”.
Về kinh tế, già hóa dân số tạo ra nhiều thách thức trong phát triển kinh tế, nhất là về cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động giảm đi, cơ cấu nghề nghiệp sẽ thay đổi, gánh nặng kinh tế đối với người lao động trẻ cũng gia tăng. Già hóa dân số gây thiếu hụt nguồn lao động bổ sung cho tương lai, làm suy giảm năng suất lao động và kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Cân đối tài chính vĩ mô bất ổn do giảm nguồn thu từ thuế, tăng chi tiêu công của chính phủ và thiếu hụt hệ thống phúc lợi xã hội. Hệ thống an sinh xã hội, nhất là các ngành dịch vụ y tế, lương hưu, phúc lợi xã hội sẽ phải chịu những áp lực về bảo đảm nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (chi phí trung bình để chăm sóc sức khỏe cho một người cao tuổi bằng 7 - 8 lần chi phí trung bình chăm sóc sức khỏe cho một người trẻ tuổi). Ngoài ra, dân số già là nhóm dễ bị tổn thương trong các cuộc khủng hoảng sức khỏe như đại dịch, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh y tế toàn cầu. Tác động kinh tế của khủng hoảng sức khỏe cũng bị khuếch đại nhiều hơn ở các khu vực có số lượng người cao tuổi đông, bởi vì chi phí chăm sóc và áp lực đối với hệ thống phúc lợi xã hội tăng trong khi năng suất lao động giảm.
Về văn hóa - xã hội, già hóa dân số có thể làm gia tăng tình trạng phân biệt đối xử theo độ tuổi, nhất là phụ nữ lớn tuổi. Thu nhập của người cao tuổi thấp khiến nhu cầu chi tiêu, mua sắm giảm, gia tăng khoảng cách giàu - nghèo, bất bình đẳng trong xã hội. Bên cạnh đó, già hóa dân số và dân số già đặt ra thách thức trong việc bảo đảm đời sống văn hóa và tinh thần cho người cao tuổi, điều chỉnh thị trường lao động - việc làm, giải quyết mâu thuẫn và xung đột giữa các thế hệ.
Về an ninh - chính trị - đối ngoại, xu hướng già hóa dân số tác động đến tiềm lực quốc phòng - an ninh của các nước; do đó, về lâu dài có thể ảnh hưởng đến tương quan sức mạnh giữa các quốc gia. Các nước có dân số già phải đối mặt với thách thức trong việc duy trì sức mạnh quân sự và khả năng cạnh tranh kinh tế. Dân số già có thể làm giảm khả năng chi tiêu cho quốc phòng - an ninh do áp lực về kinh tế, hệ thống an ninh xã hội và lương hưu. Ngoài ra, tỷ lệ người trẻ ở độ tuổi nhập ngũ giảm gây khó khăn cho việc tuyển quân và duy trì ổn định lực lượng quân đội, có thể dẫn đến nhiều rủi ro khi xảy ra chiến tranh hoặc các tình huống khẩn cấp.
Bên cạnh đó, già hóa dân số mang lại một số hệ lụy từ xu hướng di cư gia tăng. Các nước tiếp nhận phải đối mặt với thách thức phát triển kết cấu hạ tầng và an ninh do số lượng người nhập cư lớn, kèm theo các vấn đề, như nhập cư trái phép, buôn lậu và xung đột sắc tộc. Ngược lại, các nước đang phát triển với dân số trẻ hơn phải đối diện với lỗ hổng trong lực lượng lao động, gây “chảy máu” chất xám và áp lực tiêu cực đối với sức khỏe, phát triển xã hội ở trong nước.
Già hóa dân số là một thực tế khách quan trong sự phát triển của các quốc gia. Bên cạnh những thách thức, xu thế này cũng đem lại không ít cơ hội.
Một là, già hóa dân số mang đến cơ hội tích cực cho năng suất lao động và phát triển nền “kinh tế bạc”. Nếu có sự đầu tư thích hợp, người lao động cao tuổi sẽ trở thành nguồn lao động chất lượng cao, nhiều kinh nghiệm, kỹ năng và gắn kết hơn với công việc, dẫn đến năng suất lao động cao hơn. Bên cạnh đó, số lượng người cao tuổi gia tăng cũng góp phần kích thích tiêu dùng, nhất là các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, y tế, phúc lợi…, hình thành nền “kinh tế bạc”(4).
Hai là, già hóa dân số gây áp lực phải đẩy mạnh sự phát triển khoa học - công nghệ. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực và áp lực đối với hệ thống dịch vụ công góp phần đẩy nhanh quá trình nghiên cứu, ứng dụng thành tựu công nghệ đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi; giúp cải thiện năng suất kinh tế trong bối cảnh tự động hóa và công nghệ mới được áp dụng ngày một phổ biến.
Ba là, già hóa dân số thúc đẩy tăng cường hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực, nhất là y tế và công nghệ. Già hóa dân số là xu thế quốc tế phi chính trị hóa, thúc đẩy sự hợp tác của các nước nhằm giải quyết những thách thức chung. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng và nhu cầu về đổi mới công nghệ khuyến khích các quốc gia đẩy mạnh hợp tác về công nghệ, trao đổi sáng kiến nghiên cứu và chia sẻ kinh nghiệm quản lý,... giúp phát triển các chính sách toàn diện cho xã hội già hóa trong tương lai.
Một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới(5). Tỷ trọng nhóm dân số trẻ từ 0 - 14 tuổi giảm từ 24,3% năm 2019 xuống khoảng 23,9% vào năm 2023; trong khi đó, nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên tăng nhanh, từ 11,9% năm 2019 lên 13,9% vào năm 2023. Nhóm dân số trong độ tuổi từ 15 - 59 tuổi chiếm khoảng 63,8% năm 2019 giảm xuống còn 62,2% năm 2023(6). Các chỉ số cho thấy, Việt Nam hiện ở trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” nhưng cũng đã bước vào quá trình già hóa dân số, dự báo sẽ chuyển sang giai đoạn “dân số già” vào năm 2038. Như vậy, Việt Nam chỉ có khoảng 14 năm để tranh thủ cơ hội của cơ cấu “dân số vàng” và cần có những bước chuẩn bị thích ứng trong tương lai.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) nhấn mạnh, “xu hướng già hóa dân số nhanh” là một trong những thách thức lớn mà Việt Nam phải giải quyết; trong thời gian tới, cần “chuẩn bị điều kiện thích ứng với già hóa dân số”(7). Việt Nam hiện tồn tại hai thực trạng về dân số, vừa trong giai đoạn “dân số vàng”, vừa đang trong quá trình già hóa dân số. Do đó, hiện nay là thời điểm phù hợp để nghiên cứu những chính sách hợp lý để ứng phó với thách thức và tận dụng cơ hội của tình trạng già hóa dân số, cụ thể là:
Thứ nhất, xác định già hóa dân số là một trong những vấn đề ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Già hóa dân số sẽ trở thành xu hướng lớn, đặt ra cả cơ hội và thách thức đối với tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội của Việt Nam trong thời gian tới. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để ứng phó hiệu quả với vấn đề già hóa dân số, cần có sự thay đổi về nhận thức kết hợp với các giải pháp tổng thể, toàn diện, kịp thời và phù hợp với bối cảnh và điều kiện của Việt Nam. Vấn đề già hóa dân số cần được đặt ở vị trí tương xứng trong các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ hai, đầu tư vào công nghệ và đổi mới kỹ thuật để bù đắp cho tình trạng thiếu hụt lao động. Chính phủ và các tổ chức liên quan có thể thúc đẩy việc đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ để nâng cao năng suất lao động, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các công nghệ tiên tiến, như trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa và robot hóa, trong quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ. Việc sử dụng những công nghệ này có thể giúp gia tăng tốc độ sản xuất, cải thiện hiệu suất và giảm sự phụ thuộc vào lao động.
Thứ ba, thúc đẩy tinh thần học tập suốt đời và giáo dục suốt đời để bảo đảm người lao động trung tuổi, cao tuổi có thể thích nghi với sự thay đổi công nghệ và yêu cầu của thị trường lao động. Đồng thời, cần xây dựng các chính sách để khuyến khích việc làm lâu dài và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trung niên và người già tham gia lực lượng lao động. Chẳng hạn, Hàn Quốc đã xây dựng một hệ thống giáo dục linh hoạt và phát triển nhiều chương trình đào tạo nghề và huấn luyện kỹ năng cho người lao động cao tuổi tiếp cận công nghệ. Hàn Quốc cũng thúc đẩy các chính sách nhằm khuyến khích việc làm lâu dài và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trung niên và người già tham gia lực lượng lao động, bao gồm các biện pháp hỗ trợ tìm kiếm việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm sự công bằng trong việc tiếp cận cơ hội việc làm.
Thứ tư, xây dựng một hệ thống quỹ hưu trí vững mạnh nhằm đem lại sự độc lập về kinh tế cho người cao tuổi. Ngoài ra, để thích ứng với già hóa dân số và bảo đảm nguồn tài chính sử dụng chăm sóc dài hạn đối với người cao tuổi, cần có những nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung chính sách về bảo hiểm chăm sóc dài hạn dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của các nước. Đơn cử như trường hợp Singapore với mô hình Tập đoàn Quỹ Tài sản quốc gia (GIC) và Quỹ Bảo hiểm xã hội (CPF) để bảo đảm tiền tiết kiệm hưu trí cho người lao động. GIC là một quỹ đầu tư quốc gia quản lý các tài sản của Singapore, trong khi CPF là hệ thống tiết kiệm và bảo hiểm xã hội bắt buộc. Điều này cho phép người lao động tích lũy tiền tiết kiệm trong suốt quá trình làm việc để bảo đảm độc lập tài chính khi về hưu. Ngoài ra, Singapore cũng tăng cường chính sách bảo hiểm chăm sóc dài hạn và hỗ trợ tài chính cho người cao tuổi có thu nhập thấp, bảo đảm họ có đủ tài chính để chăm sóc sức khỏe và sinh hoạt hằng ngày.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Mở rộng, nâng cao năng lực chăm sóc, khám, chữa bệnh cho người cao tuổi, xây dựng môi trường sống thân thiện với người cao tuổi. Hướng tới sự phát triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến để quá trình già hóa dân số diễn ra một cách năng động, với sự bảo đảm sức khỏe và đóng góp tích cực cho xã hội của người cao tuổi. Đồng thời, tăng cường đào tạo cán bộ chăm sóc và cán bộ chuyên môn y tế trong công tác chăm sóc người cao tuổi và phát triển dịch vụ, hoạt động chăm sóc người cao tuổi ở gia đình. Ngoài ra, đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư nhân trong chăm sóc người cao tuổi để gia tăng sự lựa chọn và chất lượng dịch vụ chăm sóc.
Thứ sáu, có chính sách phù hợp, khuyến khích phát triển nền “kinh tế bạc”. Ở góc độ doanh nghiệp, chính phủ có thể đưa ra những chính sách khuyến khích và hỗ trợ phù hợp cho người cao tuổi muốn khởi nghiệp hoặc mở doanh nghiệp riêng. Điều này có thể bao gồm việc cung cấp vốn kinh doanh, tư vấn và hỗ trợ về quy trình hành chính, giảm thuế và các lợi ích khác nhằm khuyến khích sự phát triển kinh doanh cho người cao tuổi. Đồng thời, cần xây dựng mạng lưới và nền tảng để người cao tuổi có thể chia sẻ kinh nghiệm và tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau.
Ở góc độ người tiêu dùng, chính phủ và các tổ chức có thể đưa ra chính sách và tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi để khai thác tiềm năng tiêu dùng của người cao tuổi. Về kết cấu hạ tầng, có các trung tâm thương mại, khu vui chơi, hạ tầng giao thông công cộng thuận tiện và các cơ sở y tế phục vụ người cao tuổi. Về sản phẩm và dịch vụ, bao gồm các sản phẩm công nghệ, dịch vụ chăm sóc và giải trí dành cho người cao tuổi. Cần đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ để có những giải pháp ứng dụng, tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người cao tuổi. Các loại sản phẩm, dịch vụ có thể bao gồm công nghệ hỗ trợ sức khỏe, dịch vụ chăm sóc từ xa, AI và robot hóa trong lĩnh vực chăm sóc và hỗ trợ hằng ngày. Việc áp dụng công nghệ có thể giúp tăng sự độc lập và chất lượng cuộc sống của người cao tuổi, đồng thời tạo ra cơ hội kinh doanh và phát triển cho các doanh nghiệp công nghệ.
Có thể nói, nguồn nhân lực là một trong ba đột phá quan trọng nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển của đất nước. Với tinh thần chủ động, dự báo “từ sớm, từ xa”, triển khai các biện pháp thích ứng sớm, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội và hóa giải những thách thức của già hóa dân số, nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc đã được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.
------------------------------------
(1) “Largest automobile markets worldwide in 2023, based on new car registrations” (Tạm dịch: Các thị trường ô-tô lớn nhất thế giới năm 2023, dựa trên số lượng xe đăng ký mới), Statista, 2024, https://www.statista.com/statistics/269872/largest-automobile-markets-worldwide-based-on-new-car-registrations/
(2) “Ranked: The World’s Top 10 Electronics Exporters (2000 - 2021)” (Tạm dịch: Xếp hạng: Top 10 nhà xuất khẩu điện tử hàng đầu thế giới (2000 - 2021)”, Visual Capitalist, 2023, https://www.visualcapitalist.com/top-10-electronics-exporters-in-the-world/
(3) “Current Population Estimates as of October 1, 2022” (Tạm dịch: Ước tính dân số hiện tại tính đến ngày 1-10-2022), Statistics Bureau of Japan, 2022, https://www.stat.go.jp/english/data/jinsui/2022np/index.html
(4) “Nền kinh tế bạc” đề cập đến các sản phẩm và dịch vụ được thiết kế để phục vụ những người từ trung niên trở lên
(5) “Vietnam: Adapting to An Aging Society” (Tạm dịch: Việt Nam: Thích ứng với xã hội già hóa), World Bank, 2021, https://documents.worldbank.org/en/publication/documents-reports/documentdetail/544371632385243499/vietnam-adapting-to-an-aging-society
(6) “Thông cáo báo chí về tình hình dân số, lao động việc làm quý IV và năm 2023”, Tổng cục thống kê Việt Nam, 2023, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2023/12/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-dan-so-lao-dong-viec-lam-quy-iv-va-nam-2023/
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 92, 111
Tác giả bài viết: Từ Anh Tuấn - Trần Trà My Học viện Ngoại giao Theo Tạp chí Cộng sản
Nguồn tin: tapchimattran.vn
Ý kiến bạn đọc